ĐI TÌM NGƯỜI LIÊN LẠC
CỦA ĐẠI TƯỚNG VÕ NGUYÊN
GIÁP
Đồng
chí Thanh Quang, người liên lạc của Đại tướng Võ Nguyên Giáp trong trong phong
trào Nam Tiến, là
người hoạt động cách mạng rất nổi tiếng của huyện Chợ Rã thời kỳ trước Cách mạng tháng Tám.
Là thế hệ
con cháu, lại cùng quê ở xã Chu Hương nhưng chuyện về ông, chúng tôi nghe được
chủ yếu qua truyền khẩu, thông tin qua sách, báo và truyền thông rất ít. Nhân
kỷ niệm 90 năm ngày thành lập Đảng, 75 năm Cách mạng tháng Tám thành
công và Quốc khánh mùng 2 tháng 9, 120 năm ngày thành lập tỉnh Bắc
Kạn, tôi quyết tâm tìm gặp các nhân chứng, các cơ quan liên quan để thu
thập các tài liệu, đồng thời đến các xã Hà Hiệu, Chu Hương - những nơi
in đậm dấu chân ông để tìm hiểu chân dung một người cách mạng có công lao với
quê hương, đất nước...
***
Đầu năm 1942, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc chỉ
thị cho Tỉnh ủy Cao Bằng phải mở rộng căn cứ địa nối Cao Bằng với Bắc Sơn - Vũ
Nhai, xây dựng thành một hành lang chính trị vững chắc từ miền núi xuống miền
xuôi để giữ mối liên lạc với Trung ương trong mọi tình huống.Theo chỉ thị của
Bác và quyết định của Liên Tỉnh ủy Cao - Bắc - Lạng, công tác Nam tiến được đặt
ra nột cách rất khẩn trương”;hướng “Nam tiến” do các đồng chí Võ Nguyên Giáp,
Lê Thiết Hùng phụ trách có nhiệm vụ chỉ huy các đội mở con đường từ Cao Bằng
qua Ngân Sơn, Chợ Rã (Bắc Kạn) nối liền với Chợ Đồn - Chợ Chu (Định Hóa, Thái
Nguyên).
Quãng năm
1944, theo giới thiệu của đồng chí Thanh Quang tại chân núi Phia Bioóc vẫn còn
một số bản có cơ sở rất tốt nên đồng chí Võ Nguyên Giáp quyết định thành lập một
trung đội Nam Tiến, từ Nguyên Bình đi hẳn về bản Nà Đông, củng cố vùng này, đặt
cơ quan tại đây rồi đánh thông đường về phía Nam. Hồi ký Từ nhân dân mà ra của
Đại tướng Võ Nguyên Giáp theo bản in năm 1964 của Nhà xuất bản Quân đội nhân
dân, Hà Nội) ghi lại:
“…Tôi cùng anh Hoàng Sâm chọn một
số đồng chí trong các đội vũ trang địa phương, tổ chức thành một trung đội Nam
tiến. Trong thời gian này, đồng chí
Thanh Quang ở Chợ Rã lên cho cho biết, tại chân núi Phja Bjoóc vẫn còn một
số bản có cơ sở rất tốt. Chúng tôi quyết định sẽ đi hẳn về chân núi Phja Bioóc,
củng cố vùng này, đặt cơ quan tại đây rồi đánh thông đường về phái Nam. Chúng
tôi mang theo một phiến đá in định về đó sẽ ra báo.
Trung đội Nam tiến luồn rừng bí mật
đi về phía Nam. Đêm đi, ngày nghỉ, đến chiều, sẩm tối lại đi. Trời dạo này, về
đêm hay mưa. Nhiều đêm mưa tầm tã, đường rừng biến thành suối, mọi thứ mang
trên người ướt hết. Trời tạnh, tạt vào một hang núi kín đáo, đốt lửa hơ quần áo
cho khô, rồi lại tiếp tục đi. Mỗi khi qua những làng bản có cơ sở, chúng tôi chỉ
cử người vào hỏi thăm tình hình đường sá, sự hoạt động của địch, rồi đi ngay.
Nhiều quãng vì đường độc đạo, không có chỗ tránh, buộc phải đi giáp những làng
bản tập trung, có lính địch canh gác nghiêm ngặt. Các bốt canh của địch trên dọc
đường gõ mõ lốc cốc suốt đêm. Có đêm phải lội những con suối nằm giáp với bốt
canh. Cả đoàn im lặng, cẩn thận đặt từng bước chân xuống bùn, tay chống gậy phải
thật nhẻ để khỏi phát ra tiếng đông. Đi khoảng sáu, bảy đêm liền, vượt qua Chợ
Rã đến chân núi Phja Bjoóc. Đã đến đích, ai nầy đều vui mừng. Trung đội nghỉ ở
một rừng vầu. Những ngày trước, hễ đến địa điểm là mọi người tranh thủ ngay,
nhưng hôm đó phấn khởi quên mệt, anh em đẵn cây làm lán xong xuôi mới đi nghỉ.
Trong khi đó, đồng chí Thanh Quang đi bắt liên lạc với cơ sở. Buổi chiều, đồng chí Thanh Quang
phờ phạc quay về cho biết, địch đang tiến hành khủng bố tại vùng này, nhiều
đồng chí vừa bị bắt. Chúng tôi hỏi lại đồng chí Thanh Quang cặn kẽ, và cử người đi gặp một số trung kiên ở địa
phương để nắm rõ tình hình. Khi về, các đồng chí đều nói, cuộc khủng bố của địch
rất gắt gáo, binh lính địch vẫn đóng tại các làng bản, nhiều đồng chí bị bắt,
nhiều nhà cửa bị đốt. Anh Hoàng Sâm và tôi thảo luận với nhau, nhận thấy tình
hình đã thay đổi, cơ sở như vậy là không còn, đội không có điều kiện để ở lại
đây. Trung đội cử người canh gác các ngả đường. Tất cả các anh em đang ngủ được
gọi dậy. Ăn xong bữa cơm chiều, cả đoàn lại lên đường quay về Cao Bằng. Trước khi đi phải đánh dấu rồi chôn phiến
đá in lại ở chân núi…”
Tại cuốn
Lịch sử Đảng bộ huyện Ba Bể 1930-1945, do Huyện ủy Ba Bể xuất bản
năm 1998 cho biết thêm: “Trong tháng 6-1944, cán bộ Nam Tiến gồm các
đồng chí Nông Văn Quang (Quang béo), Thanh Quang, Nguyên Tài từ Cao Bằng
tổ chức nhiều đợt xuống Phja Bjoóc củng cố các Hội Việt Minh ở Nà
Đông, Píc Cáy...”(trang 44).
Một số hồi ký, tác phẩm của Đại
tướng Võ Nguyên Giáp và các tác giả khác
Như vậy, có thể thấy về tài liệu lịch
sử đảng và hồi ký của Đại tướng là những cơ sở, bằng chứng quan trọng về sự
tồn tại của nhân vật Thanh Quang, tuy nhiên để biết thêm nhiều thông tin hơn nữa
thì theo cách thông thường phải tìm gặp nhân chứng, khó là ông Quang đã mất
trên vài chục năm rồi nên những người từng có dịp tiếp xúc, gặp gỡ và biết về
ông hẳn là không nhiều nhưng cũng không phải không có hy vọng. Quả nhiên, xuống
Pù Mắt vừa đặt vấn đề, anh Lê Hùng, Trưởng Công an xã Chu Hương cũng là anh con
bác tôi khẳng định “em cứ xuống ông Đòng hỏi nhé, cụ hơn 90 tuổi rồi chắc là biết”.
Vội theo chân ông anh, tôi đến nhà cụ Nông Văn Đòng, nhà ngay ngã ba đường rẽ
sang xã Hà Hiệu, cách con suối nhỏ không xa.
Cụ Nông Văn Đòng trước cửa
nhà, theo cụ, ngôi nhà này được xây dựng trên nền nhà cũ của ông Thanh Quang
Cụ Nông Văn Đòng, tính theo tuổi
âm lịch thì năm nay đã bước sang 94 (cụ sinh năm 1927) những vẫn khá khỏe mạnh
và đặc biệt còn minh mẫn; trước đây cụ cũng từng tham gia tự vệ du kích và được
kết nạp đảng từ năm 1949, mới vừa rồi Đảng ủy xã vừa tổ chức Lễ trao Huy hiệu
70 năm tuổi Đảng cho cụ. Chúc mừng cụ về sự kiện nhận huy hiệu đảng đồng thời
trao đổi luôn về nội dung cần tìm hiểu, cụ Đòng khẳng định là tôi biết, bản
thân đã từng gặp gỡ tiếp xúc nhiều lần với ông ấy! Theo cụ, gia đình ông Thanh
Quang vốn là người Cao Bằng xuống cư trú ở bản Nà Đông, xã Chu Hương. Ông tên
thật là Phương Văn Phia, không rõ năm sinh, sau hoạt động cách mạng lấy bí danh
là Thanh Quang, em trai ông tên là Phương Văn Đán, sinh năm 1928 cũng tham gia
hoạt động cách mạng và hy sinh năm 1947 (theo tiếng Tày thì Phja là núi đá, Đán
là bàn thạch, quả đúng với phẩm chất cách mạng sắt đá của họ).
Đường vào thôn Bản
Trù để lên Nà Đông trên dãy Phja
Bjoóc
Cụ Đòng cho
biết thêm: Khoảng năm 1942 ông Thanh Quang có chuyển nhà xuống Pù Mắt, và nền
nhà cũ của ông Quang chính tại vị trí gia đình cụ đang ở. Trong một buổi vây
ráp của giặc Pháp tại căn nhà này, khi không còn cơ hội để lần trốn ông Thanh
Quang đã mưu trí chui xuống nằm dưới nền ván lát chồng trâu, ngâm mình trong
phân trâu để tránh. Hôm đó, dù giặc khám xét gắt gao nhưng không tìm thấy, nhờ
đó mà ông thoát nạn, ông Thanh Quang cũng là người đầu tiên ở xã tự tay đốt
nhà mình để thực hiện “vườn không nhà trống”, không cho giặc lợi dụng. Tôi vừa
ghi chép những cũng thầm nhận thấy thái độ cụ Đòng không giấu được sự khâm phục
đối với đồng chí đàn anh của mình, thi thoảng cụ lại buột miệng: “Ông này hoạt
động cách mạng mạnh lắm, nhiệt tình lắm”, “Người thì béo tốt nhưng tác phong thì
nhanh thoăn thoắt như sóc”…Tiếc là cả hai anh em ông Thanh Quang đều không xây
dựng gia đình, ông mắc bệnh ung thư và mất khoảng năm 1964 nên họ hàng, con
cháu hiện nay không còn ai. Ngồi cùng nghe chuyện, anh Lê Hùng, Trưởng Công an
xã cũng khẳng định là bản Nà Đông hiện không có hộ nào mang họ Phương…
Vị trí nền nhà
ông Thanh Quang trước đây nhìn
từ chợ Pù Mắt cũ xuống
(nhà mái tôn đỏ chính giữa ảnh)
Sau cách mạng, do ông Thanh Quang
không có gia đình nên Tỉnh ủy Bắc Kạn chỉ đạo Huyện ủy Chợ Rã bố trí cho ông
làm tạp vụ cơ quan và ở tập thể cơ quan cho đến khi qua đời. Người biết rõ
chuyện này là ông Ô Phúc Bình nguyên Trưởng phòng Lương thực huyện Chợ Rã năm
nay 94 tuổi, có 73 năm tuổi đảng; trước khi sang công tác tại Phòng Lương thực,
ông Ô Phúc Bình là Phó Văn phòng Huyện ủy Chợ Rã cùng làm việc với ông
Quang nhiều năm; nên nắm rất rõ về ông này. Sau khi trao đổi, ông Phúc
Bình khái quát như sau : Đồng chí Nông Văn Lạc[1], một
cán bộ cách mạng đã xây dựng Phương Văn Phia thành cơ sở cách mạng
bí mật của Việt Minh và đặt bí danh là Thanh Quang, nhiệm vụ chính
là làm liên lạc dẫn đường từ Lủng Cháng đến Nà Đông; trong những
lần đó có nhiều lần liên lạc cho đồng chí Văn. Ông từng nghe đồng
chí Thanh Quang kể lại: Tôi được các cán bộ thượng cấp của Việt
Minh giao nhiệm vụ liên lạc (có thể như bây giờ gọi là giao liên) Giữa trạm Lủng
Cháng – Nà Đông (thuộc xã Chu Hương chân
núi Phia Bjóoc), Trạm Lủng Cháng được đặt ở nhà đồng chí Bàn Văn Hoan. Các
cán bộ đi lại làm nhiệm vụ Nam Tiến đều qua 2 trạm này, mỗi trạm đều có trạm tiếp
theo lên hoach xuống mỗi khi có cán bộ thượng cấp qua lại khi trạm trên đưa đến
trạm Lủng Cháng tôi phải đến đón dẫn đường đến trạm Nà Đông rồi ở đó có người
khác ở trạm tiếp đón đi. cả khi các cán bộ xong việc trở về chiến khu cũng đều
phải đưa đón theo quy luật trên. Riêng đồng chí Văn, tôi đã được đưa lên đưa xuống
2, 3 lần nên được đồng chí Văn tỏ lời kết nghĩa anh em. Tất cả các cuộc đi lại
đều là đi đêm, không đèn đuốc gì. Nhiệm vụ liên lạc này chỉ được người nào dứt
khoát người đấy, không ai được thay. Nhà đồng chí Hoan ở Lủng Cháng mỗi khi có
cán bộ giao liên đến là tối không nhóm bếp, không đốt đèn, ăn cơm ở trong buồng
tối mịt, muốn ăn gì phải sờ soạng bằng tay…
Theo ông Phúc Bình: ông Thanh Quang
là nhân vật hoạt động cách mạng nổi tiếng có thể nói là số một
của huyện Chợ Rã lúc bấy giờ, tính cách gạn dạ của ông khiến sự
kiện hai anh em ông theo cách mạng làm bọn quan lại địa phương khiếp
vía, đâu đâu cũng thấy xôn xao thông tin: “thằng Phia, thằng Đán ở Nà Đông theo cộng sản rồi”. Chính
vì có công lao lớn, nên mặc dù lúc đó còn rất khó khăn, chưa có chế
độ chính sách với người có công hoàn thiện như bây giờ nhưng Tỉnh ủy
Bắc Kạn vẫn rất quan tâm và giao nhiệm vụ cho lãnh đạo huyện Chợ Rã
có trách nhiệm bố trí công việc để ông Quang có nơi nương tựa, ăn ở
về già. Cuối đời, ông Thanh Quang mắc căn bệnh ung thư phần xương hàm
nên bị lở loét hỏng 1 bên hàm mặt. Trong quá trình đi điều trị tại
Quân y viện 108, có lần ông Thanh Quang có ý kiến đề nghị cán bộ
bệnh viện báo cho Đại tướng Võ Nguyên Giáp để gặp, ban đầu tưởng ông
đùa nên cán bộ bệnh viện còn nói kháy: “Ông là ai mà dám đòi gặp
Đại tướng?”, tuy vậy ông vẫn khăng khăng đòi gặp bằng được; thấy lạ,
bệnh viện mới thông tin lên cấp trên để báo cáo với Đại tướng về
trường hợp này. Nghe tin, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã trực tiếp đến viện
gặp, động viên ông điều trị; sự kiện này khiến cả Quân y viện 108 xôn
xao nhiều ngày, từ đó mọi người nhìn ông bằng thái độ kính nể. Khi
bệnh quá nặng phải trả về thì chính Đại tướng chỉ đạo cho xe đưa
ông về địa phương, lúc qua đời ông được chôn tại Tin Đồn (khu vực trụ
sở UBND huyện Ba Bể hiện nay). Về chi tiết phiến đá Đại tướng định
dùng để in báo Việt Nam độc lập, do tình hình thay đổi nên đã chôn ở
Nà Đông như hồi ký của Đại tướng đã nêu ở trên; thì theo ông Phúc
Bình, khoảng những năm 1960, Tỉnh ủy cử cán bộ cùng ông Thanh Quang
về Nà Đông để tìm lại phiến đá trên nhằm thu thập, lưu giữ làm tư
liệu lịch sử. Đoàn công tác đã tìm kiếm nhiều ngày theo chỉ dẫn
của ông Thanh Quang nhưng tiếc là do thời gian quá lâu nên không tìm
được hiện vật lịch sử quý giá đó.
Cuối năm 1943, các đội xung phong Nam tiến, sau khi hoàn thành nhiệm vụ đều
trở về Tam Kim - Hoa Thám (Nguyên Bình). Tổng bộ Việt Minh và Liên Tỉnh ủy Cao
- Bắc - Lạng tổ chức lễ tổng kết, liên hoan mừng thắng lợi và tặng các đội Nam
tiến lá cờ “Xung phong thắng lợi”. Tại lễ
tổng kết, đồng chí Võ Nguyên Giáp, người tổ chức và phụ trách Ban xung phong
Nam tiến đánh giá: “Con đường Nam tiến mở ra theo chỉ thị của Bác và dưới sự chỉ
đạo của Ban xung phong Nam tiến đã thành công xuất sắc, nối Cao Bằng và Thái Nguyên,
Tuyên Quang. Các đội xung phong Nam tiến đã góp phần xứng đáng vào thành công
đó”.
Về phần người liên lạc của Đại tướng,
ngoài những chuyện kể trên được biết khi ông Thanh Quang mất nhiều năm, huyện
Chợ Rã đã cải táng và đưa mộ ông về quy tập tại Nghĩa trang liệt sĩ huyện để
trông nom, hương khói.Qua xác minh tại Ủy ban nhân dân xã Chu Hương phát hiện một
vật quý giá trong hồ sơ lưu trữ của xã, đó chính là tấm bằng“Có công với nước”,cấp ngày 02 tháng 01
năm 1979 do Thủ tướng Phạm Văn Đồng ký; trên tấm bằng ghi rõ: “Chính phủ Nước CHXHCN Việt Nam tặng bằng Có
công với nước: Ông Phương Văn Phia, xã Chu Hương, huyện Chợ Rã, tỉnh Bắc Thái;Đã tích cực giúp đỡ và bảo vệ cách mạng góp
phần vào thắng lợi của cuộc cách mạng Tháng Tám”(Quyết định số 01/CP, ngày 02/01/1979, số bằng: 19/CCVN).Hiện nay, tại nhà bia ghi tên liệt
sĩ xã Chu Hương có vinh danh tên tuổi hai anh em Phương Văn Phia và Phương Văn
Đán. Chị Đàm Thị Tốt, nguyên công chức văn
hóa – xã hội UBND xã Chu Hương cũng cho biết là do gia đình ông Thanh Quang
không còn ai nên xã vẫn quản lý tấm bằng Có công với nước nói trên.Hiện nay, tại
nhà bia ghi tên liệt sĩ xã Chu Hương có vinh danh tên tuổi hai anh em Phương
Văn Phia và Phương Văn Đán (hàng tên ở thứ tự số 4 và 5).
Bằng Có công với nước của ông Phương Văn
Phia (Thanh Quang)
Tên 2 anh em ông Phương Văn Phia, Phương Văn Đán trên
Nhà bia ghi tên liệt sĩ xã Chu Hương (số 4-5)
Trên quê
hương đồng chí Thanh Quang hôm nay, Nà Đông đã được sáp nhập vào thôn
Bản Trù; thôn được nhà nước quan tâm đầu tư nhiều công trình, trong đó
tuyến đường Bản Trù - Nà Đông được khởi công từ tháng 02/2019, có tổng mức đầu
tư hơn 800 triệu đồng, trong đó người dân đóng góp hơn 17 triệu đồng, bằng ngày
công lao động, nguồn vốn thuộc Chương trình Mục tiêu quốc gia giảm nghèo 135,
có tổng chiều dài trên 500m, được thiết kế mặt đường rải bê tông rộng 3,5m, do
UBND xã Chu Hương làm chủ đầu tư đã gần hoàn thiện, việc đi lại không
vất vả như hồi trước; đời sống kinh tế trong bản đã có nhiều khởi
sắc; ngày càng thêm nhiều ngôi nhà xây mới được dựng lên, tạo nên
diện mạo mới, với tương lai ngày càng sáng lạng của một bản làng
trên đỉnh Phja Bjoóc – Núi Hoa – Núi Cứu quốc hùng vĩ. Dịp tết cổ truyền
Canh Tý rồi, tôi có lên đó chúc tết, hỏi thăm một số bà con, nhất
là tìm kiếm chính xác vị trí nền nhà cũ của ông nhưng tiếc là số
người biết không nhiều hoặc biết rất mơ hồ; do vậy tôi không thu thập
thêm được gì ngoài vài kiểu ảnh rồi chia tay họ.
Nà Đông hôm nay
*****
Địa bàn Bắc Kạn nói
chung hay huyện Chợ Rã xưa nói riêng vốn là vùng hoạt động cách mạng gắn với
nhiều sự kiện quan trọng liên quan đến Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đại tướng Võ
Nguyên Giáp và nhiều nhà cách mạng tiền bối của Đảng. Nhờ nhân dân
địa phương đùm bọc, bảo vệ, giúp đỡ mà cách mạng được thành công, đồng
chí Thanh Quang hay đồng chí Bàn Văn Hoan là những con người như vậy. Bên cạnh
những việc đã làm được về chăm sóc người có công thì trên thực tế vẫn còn đó, rất
nhiều nhân vật cách mạng ở địa phương và những câu chuyện liên quan đến quá
trình hoạt động của họ đang bị thời gian lãng quên. Là những nhân vật từng hoạt động
cùng Đại tướng, cuộc đời hoạt động
cách mạng của họ chắc chắn có nhiều câu chuyện thú vị mà ta chưa biết;
nhưng do thời gian khuất lấp nên có người chỉ còn là những nhân vật quá khứ “nằm
yên” trong những trang sách sử…
Trong
quá trình thu thập tư liệu viết bài, chúng tôi còn được nghe những trăn trở,
suy tư của các nhân chứng lịch sử, của cán bộ và nhân dân. Tựu trung là mong
muốn tên tuổi và công lao của ông Thanh Quang cũng như những người khác cần
được truyền bá nhiều hơn, sâu rộng hơn để góp phần giáo dục truyền thống cách
mạng, tri ân những bậc tiền bối có công với nước, với quê hương.
Kết
thúc bài viết này trong không khí những ngày mùa xuân kỷ niệm 90 năm ngày
thành lập Đảng, trong tôi chộn rộn bao cảm xúc. Thành quả của sự nghiệp cách
mạng hôm nay có được từ sự hy sinh, từ bao máu xương của các anh hùng liệt sĩ,
cán bộ và nhân dân, trong đó có người cách mạng Thanh Quang quê tôi. Nghĩ về
điều đó, càng thấm thía lời dặn của Bác Hồ kính yêu về chính sách đối với
người có công: “Tổ quốc và đồng bào phải biết ơn, phải giúp đỡ những người
con anh hùng ấy”…
KIM KIM
[1] Đại biểu Quốc hội đầu tiên của tỉnh Bắc Kạn,
Ủy viên dự khuyết Thường trực Quốc hội khóa 1, Trưởng ban cán sự, Trưởng ban chỉ
huy Công trường 111…(cha đẻ của đồng
chí Nông Quang Đông, nguyên Phó Giám đốc Đài PTTH tỉnh Bắc Kạn).